Đạt ma vẩy tay dịch cân kinh – Phương pháp chữa bách bệnh không dùng thuốc, không mất tiền
 
Tập “Dịch cân kinh” thấy ăn tốt ngủ ngon, đấy là việc phổ biến, nên đã làm tăng sức khỏe cho các bệnh nhân nói chung và chữa khá nhiều bệnh như: Suy nhược thần kinh, huyết áp cao, bệnh tim các loại, bệnh thận, bán thân bất toại, trúng gió, méo mồm, lệch mắt, hen suyễn…
 
Đông y cho rằng, vấn đề cơ bản của bệnh tật con người là do “khí huyết” (Âm-Dương) mất thăng bằng sinh ra. “Đạt Ma Dịch cân kinh” giải quyết được vấn đề này, nên đối với đa số các loại bệnh, nhất là bệnh mãn tính đều có thể chữa được cả…
 
1.Lịch sử:
 
Năm 917 (sau Công nguyên) Đạt Ma Tổ Sư từ Ấn Độ sang Trung Quốc thuyết pháp và truyền giáo, sau ở lại Trung Sơn – Hà Nam – Trung Quốc, xây dựng chùa Thiếu Lâm. Có nhiều đệ tử nhập môn học Phật để mai sau đi truyền giáo đem một tín ngưỡng mới đi tuyên truyền, có khi trái với tín ngưỡng cũ, dễ xảy ra xung đột nên cho đệ tử Chùa Thiếu Lâm vừa học lí thuyết Phật giáo, vừa phải luyện võ để tự vệ (một phái võ Thiếu Lâm vẫn tồn tại đến ngày nay).
 
Nhiều người xin nhập môn, nhưng thể lực kém không luyện võ được. Tổ sư truyền dạy một phương pháp luyện tập tên gọi là “Đạt Ma Dịch cân kinh” để chuyển biến thể lực của các đệ tử từ yếu thành khỏe. Cách tập đơn giản, nhưng hiệu lực lớn, vì tiêu trừ được bệnh.
 
2.Tư tưởng:
Ngày nay, người ta nghiên cứu lại phương pháp này chữa được rất nhiều bệnh. Phương pháp luyện tập “đạt Ma Dịch cân kinh” trước tiên nói về tư tưởng:
 
Phải có hào khí: nghĩa là phải có quyết tâm tập cho đến nơi và đều đặn, phải vững vàng tin tưởng, không nghe lời bàn ra nói vào mà chán nản bỏ dở.
 
Phải lạc quan: không lo sợ vì bệnh mà mọi người cho là hiểm nghèo, và tươi tỉnh tin rằng mình sẽ thắng bệnh do luyện tập.
 
3.Tư thế:
Tư thế: “Trên không dưới có, trên ba dưới bảy”.
 
Trên phải không, dưới nên có, đầu nên lơ lửng, miệng không hoạt động, bụng phải mềm, lưng nên thẳng, thắt lưng mềm dẻo, hai cánh tay phải vẫy, cùi chỏ thẳng và mềm, cổ tay trầm, bàn tay quay lại phía sau, ngón xòe như cái quạt. Vẫy, hậu môn phải thót, bụng dưới thót, gót chân lỏng, bàn chân phải cứng, các ngón chân bấm chặt như đứng trên đất trơn. Đây là những quy định cụ thể của các yêu cầu khi luyện “Đạt Ma Dịch cân kinh”.
 
Dựa trên yêu cầu này, khi tập vẫy tay, thì từ cơ hoành trở lên, phải giữ cho được trống không, buông lỏng thảnh thơi, đầu không nghĩ ngợi lung tung, chỉ chú ý vào việc tập, xương cổ cần buông lỏng để có cảm giác như đầu treo lơ lửng, mồm giữ tự nhiên (không mím môi), ngực nên buông lỏng để cho phổi thở tự nhiên, cánh tay buông tự nhiên, giống như hai mái chèo gắn vào vai. Từ cơ hoành trở xuống phải giữ cho chắc, đủ sức căng, bụng dưới thót vào, hậu môn nhích lên, mười ngón chân bấm chặt vào mặt đất, giữ cho đùi và bắp chân trong trạng thái căng thẳng, xương mông thẳng như cây gỗ.
 
4.Động tác vẫy tay:
 
Khi vẫy tay cần nhớ “lên không, xuống có”, nghĩa là lấy sức vẫy tay về phía sau, khi tay trở lại phía trước là do quán tính, không dùng sức đưa ra phía trước.
 
“Trên ba dưới bảy” là phần trên để lỏng chỉ độ ba phần khí lực, phần dưới lấy gắng sức tới bảy phần thể lực, vấn đề này phải quán triệt đầy đủ thì hiệu quả rất tốt.
 
Mắt nhìn thẳng, đầu không nghĩ ngợi gì, chỉ nhẩm đếm lần vẫy tay.
 
Các bước tập cụ thể như sau:
 
a. Hai bàn chân để xích ra bằng khoảng cách của hai vai.
 
b. Hai cánh tay duỗi thẳng theo vai, ngón tay xòe thẳng, lòng bàn tay quay về phía sau.
 
c. Bụng dưới thót lại, lưng thẳng, bụng trên co lên, cổ lỏng, đầu miệng trong trạng thái bình thường.
 
d. Các đầu ngón chân bám trên mặt đất, gót chân sát đất, bắp chân và đùi thẳng.
 
e. Hai mắt chọn một điểm đằng xa để nhìn, không nghĩ ngợi lung tung, chỉ chú ý vào ngón chân bám đùi vế chắc, hậu môn thót và nhẩm đếm.
 
f. Dùng sức vẫy tay về phía sau, để hai tay trở lại phía trước theo quán tính, tuyệt đối không dùng sức, chân vẫn lên gân, hậu môn co lên không lòi.
 
g. Vẫy tay từ 300-400-500-600 dần dần lên tới 1.000 cái vẫy tay, ước chừng 30 phút.
 
h. Phải quyết tâm tập đều đặn, lần vẫy tay dần dần tăng lên không miễn cưỡng vì “dục tốc bất đạt”, nhưng cũng không tùy tiện bữa tập nhiều, bữa tập ít hoặc nghỉ bệnh, vì thế dễ làm mất lòng tin trong việc luyện tập, khó có kết quả.
5.Chú ý:
Bắt đầu luyện tập cũng không nên dùng tận lực làm tổn thương các ngón chân (sau buổi tập nên vân vê các ngón chân, tay, mỗi ngón chín lần). Nôn nóng mong muốn khỏi bệnh ngay mà dùng quá sức cũng không đưa lại kết quả mong muốn. Có quyết tâm, nhưng phải từ từ tiến lên mới là đúng cách, sẽ thu được kết quả mĩ mãn.
 
Nếu tinh thần không tập trung, tư tưởng phân tán, thì khí huyết loạn xạ, và không chú ý đến “trên nhẹ dưới nặng” là sai và hỏng.
 
Khi vẫy tay tới 600 cái trở lên, thường thường có trung tiện, hắt hơi, hai chân nhức mỏi, toát mồ hôi, mặt nóng bừng… đấy là hiện tượng bình thường, đừng ngại.
 
Trung tiện và hắt hơi là do nhu động của đường ruột tăng lên, đẩy mạnh cơ năng tiêu hóa. Chân mỏi là do khí huyết dồn xuống cho hợp với “trên nhẹ, dưới nặng”. Đây là quy luật của sinh lí hợp với vũ trụ “thiên khinh, địa trọng”.
Người bệnh nặng có thể ngồi vẫy tay cũng được, nhưng nhớ phải thót đít và bấm 10 đầu ngón chân xuống đất.
Số lần vẫy tay trong 1 buổi tập không giới hạn, nhưng các buổi tập phải đều, không nên lúc nhiều lúc ít. 1800 lần trong một buổi tập là có tác dụng chữa bệnh tốt, có thể tập nhiều hơn. Khi tập thấy ăn ngon, ngủ tốt , đại tiểu tiện bình thường, tinh thần tỉnh táo là số lần tập phù hợp với sức khỏe của ta.
Lúc mới tập người bệnh nhẹ có thể vẫy nhanh vòng rộng , dùng sức nhiều, với người bệnh nặng vẫy chậm hơn, vòng hẹp, dùng ít sức. Vẫy nhanh quá thì tim đập quá nhanh, nhẹ quá thì không có tác dụng làm cho máu lưu thông.
Vẫy tay là môn thể dục cần sự mềm dẻo, dùng ý là chính mà không dùng sức, nhưng phải làm sao cho cho bả vai, lưng, ngực chuyển động làm cho cơ hoành lên xuống mới có tác dụng.
Khi tập căn cứ vào cảm nhận của mình để điều chỉnh nhiều ít, nhanh chậm, mạnh nhẹ sao cho phù hợp với bản thân. thấy nhanh nhẹn, tươi tỉnh hơn là tốt nếu kém trước thì cần điều chỉnh.
Đông y cho rằng động tác nhẹ là bổ ích cho cơ thể, động tác mạnh là loại bỏ các chất căn bã có hại cho cơ thể tức là chữa bệnh.
Nhẩm đếm làm cho tỉnh táo, đầu óc được yên tĩnh nghỉ ngơi chân tâm được bồi dưỡng.
Khi tập có thể trong nhà học ngoài trời, đảm bảo yên tĩnh, không khí trong sạch không có gió lùa.
Sau khi tập thấy ngực lưng nhẹ nhàng hơi thở đều hòa, mắt sáng,nước miệng ứa ra đại tiện nhuận, ăn ngon hơn, bệnh tật bớt dần thế là tập đúng và bệnh tật sẽ khỏi. Rất ít khi tập sai, mà chỉ có tác dụng nhiều ít khác nhau.
Cần vững tin khi luyện tập, không hoang mang, lạc quan với cuộc sống, quyết tâm luyện tập đến nơi đến chốn thì dù bệnh nan y cũng khỏi. Càng để chậm, ngần ngại càng khó khăn và càng lâu khỏi bệnh.
Chống chỉ định: Những người đang ngoại thương không được phép tập, vì máu lưu thông mạnh làm vết thương há miêng, khó lành.
6.Hiệu quả phòng và trị bệnh
Bệnh gan: Do khí huyết, tạng gan không tốt gây nên khí không thoát, tích lũy, làm cho khó bài tiết. Đương nhiên là bệnh nan y ảnh hưởng tới cả mật và tì vị. Luyện “Dịch cân kinh” có thể giải quyết vấn đề này. Nếu có trung tiện là có kết quả sớm.
 
Bệnh mắt: Luyện “Dịch cân kinh” có thể khỏi đau mắt đỏ, các chứng đau mắt thông thường, cận thị, thậm chí nó chữa được cả bệnh đục thủy tinh thể (thong manh).
 
Trong nội kinh có nói “mắt nhờ huyết mà nhìn được”, khi khí huyết không dẫn đến bộ phận của mắt thì đương nhiên sinh ra các bệnh của mắt. Con mắt là trong hệ thống của thị giác, nhưng cũng là một bộ phận của cơ thể.
 
Khi tập có thể có phản ứng sự xung đột giữa chính khí và tà khí, ta vẫn tập thì sẽ sản sinh ra chất bồi bổ có nhiều ích lợi cho chính khí. Ta luyện tập đúng phép là làm tăng mức đề kháng, thải cặn bã trong các gân, thần kinh và cả tế bào khác mà máu bình thường không thải nổi. Như luyện “Đạt Ma Dịch cân kinh” khí huyết lưu thông mới thải nổi các cặn bã ra nên sinh ra phản ứng. Vậy ta đừng sợ, cứ tiếp tục tập như thường, hết một phản ứng là khỏi một căn bệnh, tập luyện dần đưa lại kết quả tốt.
7.Tiêu chuẩn đạt được
Luyện “Đạt Ma Dịch Cân Kinh” đạt được bốn tiêu chuẩn như sau:
 
– Nội trung tố: tức là nâng cao can khí lên, là then chốt, điều chỉnh tạng phủ, lưu thông khí huyết, thanh khí sẽ thông suốt lên tới đỉnh đầu.
 
– Tứ trưởng tố: tức là tứ chi phối hợp với động tác theo đúng nguyên tắc khi tập “Dịch cân kinh”. Tứ trưởng tố song song với Nội trung tố sẽ làm cho tà khí bài tiết ra ngoài, trọc khí dằn xuống, cơ năng sinh sản ngày càng mạnh.
 
– Ngũ tâm phát: nghĩa là 5 trung tâm của huyệt dưới đây hoạt động mạnh hơn mức bình thường:
 
Bách hội: một huyệt trên đỉnh đầu.
 
Lao cung: hai huyệt của hai gan bàn tay.
 
Dũng Tuyền: hai huyệt ở hai gan bàn chân.
 
Khi luyện “Dịch cân kinh” năm huyệt này đều có phản ứng và hoàn toàn thông suốt. Nhâm đốc và 12 kinh mạch đều đạt tới hiệu quả phi thường, nó làm tăng cường thân thể tiêu trừ các bệnh nan y mà ta không ngờ.
 
– Lục phủ minh: Lục phủ là ruột non, mật, dạ dày, ruột già, bong bóng, tam tiêu.
 
Nghĩa là không trì trệ, lục phủ có nhiệm vụ thâu nạp thức ăn tiêu hóa và bài tiết được thuận lợi, xúc tiến các cơ năng sinh sản, giữ vững trạng thái bình thường của cơ thể, tức là âm dương thăng bằng, cơ thể thịnh vượng.
8.Những phản ứng có thể có khi tập
Khi luyện tập dịch cân kinh có thể xảy ra các phản ứng đó là hiện tượng thật khi có bệnh, không đáng ngại. Có thể liệt kê 34 phản ứng thông thường còn lại các phản ứng khác không kể xiết.
1, đau ruột. 2, tê dại. 3, lạnh 4, nóng 5, đầy hơi 6, Sưng 7, Ngứa 8, Ứa nước miếng 9, Ra mồ hôi 10, Có cảm giái kiến bò kiến cắn 11, Giật gân 12, Đau xương cổ, tiếng kêu lục cục 13, Cảm giác máu chảy dồn dập 14, Lông tóc dựng đứng 15, Âm nang nở to 16, Lưng đau 17, Hắy mắt, mi mắt giật 18, đầu nặng 19, Hơi thở ra nhiều, thở dốc 20, Hỏa 21, Trung tiện 22, Gót chân nhức mỏi như mưng mủ 23, Huyết áp biến đổi 24, Lưỡi có cơm trắng 25, da cứng 26, Sắc mặt biến đổi 27, Đau mỏi toàn thân 28, nôn mửa 29, Đại tiện ra máu, mủ hoặc phân đen 30, Tiểu tiện nhiều 31, trên đầu mọc mụn 32, Bệnh từ trong da thịt tiết ra, 33, Ngứa từng chỗ hay toàn thân. 34, chảy máu cam.

Có các phản ứng trên là do trọc khí trong người bị đẩy ra làm sạch cơ thể tức là trừ bệnh tật. là phản ứng giữa chính khí và tà khí. Nếu ta tiếp tuc tập chính khí được bồi bổ làm tăng sức đề kháng, thải được các cặn bã trong các tế bào thần kinh, trong gân và các tế bào khác mà bình thường máu không thải nổi. Vì vậy khi có phản ứng ta đừng sợ, tiếp tục tập hết 1 phản ứng là hết 1 bệnh. luyên tập đều sẽ đưa lại kết quả tốt không ngờ.

9.Tóm tắt & Kinh nghiệm bản thân

Tóm tắt
Vẩy tay Đạt ma dịch cân kinh
– Tập ở đâu cũng được, giờ nào cũng được, nhưng chỗ rộng, thoáng nhiều cây xanh, gần thiên nhiên, tập buổi sáng sớm, nhìn về phía mặt trời mọc là tốt nhất.
– Chân đứng trên thảm hoặc đi dép, rộng ngang vai, 10 ngón chân bấm chặt xuống đất
– Tay vung mạnh về sau 7 phần, rơi tự nhiên về trước 3 phần, cổ tay vẩy mạnh lên, xuống.
– Cuốn lưỡi ngậm miệng, thót hậu môn liên tục trong suốt quá trình tập để khéo kín 2 mạch Nhâm & Đốc
– Mắt nhìn thẳng, hướng lên ~ 5 độ, về 1 điểm cố định ở phía trước. Ngoảnh ngang, nhìn dọc dễ bị ngẹo cổ, nên phải tập trung.
– Nhẩm đếm 1~100, 101~200,…, 1700, 1800…Mục đích để rèn sự tập trung, giúp đầu óc thư giãn, không nghĩ lung tung.
– Tập 1800 cái mỗi ngày ~ 30p, giúp đào thải độc tố, lưu thông khí huyết, tăng cường sức khỏe, đẩy lùi bệnh tật, kể cả ung thư.

Kinh nghiệm bản thânTrong quá trình tập thì mình thấy việc luyện để tập trung thót hậu môn và đếm liên tục là khó nhất. Cũng như kiểm soát việc thở ra đằng mũi hít vào đằng miệng trong khi bơi vậy.

Lâu lâu phải để ý xem còn thót hậu môn không. Đếm có nhầm không, mình hay nhầm ở đoạn X10, ví dụ 510 thì phải đến 511 nhưng thường đếm thành 520, 530…hay 509 rồi đến 510 nhưng hay đếm thành 600…

Tập đếm để luyện tĩnh tâm, không suy nghĩ linh tinh làm loạn tâm.

Mình hay đếm như sau:

– Một, hai, ba…, chín chín, một trăm.
– Một không một, một không hai…, một chín tám, một chín chín, hai trăm…
– Chín không một, chín không hai…, chín chín tám, chín chín chín, một nghìn.
– Quay lại đếm 1000 tiếp theo.

Cổ tay phải vảy lên, vảy xuống để đóng mở huyệt Nội quan và Ngoại quan.

Cuốn lưỡi ngậm miệng và thót hậu môn để khép kín 2 mạch Nhâm và Đốc.

Mười đầu ngón chân bấm xuống đất để tác động lên các đường kinh âm đi từ đầu các ngón chân.

Mắt nhìn thẳng, không quanh sang hai bên. Thư giãn. Vẩy tay đều đều.

Sau khi tập đầu óc nhẹ nhàng, lòng bàn tay hơi căng vì máu dồn về, bàn tay ấm nóng, chân tay ra mồ hôi, bụng đói…

Chú ý: Người bị đau gối, không đứng được, có thể ngồi ghế không tựa lưng, vẩy tay tình thường, chân vẫn bấm xuống đất, hiệu quả cũng rất tốt.

10.Các kiểu vẩy tay phổ biến:
Như chúng tôi tìm hiểu, thì hiện nay có một số kiểu vẩy tay, cơ bản đều là giúp lưu thông khí huyết, nâng cao sức khỏe, nhưng mỗi kiểu tập lại có một số điểm khác nhau tùy thuộc mục đích của ngưởi sáng tạo ra và đối tượng hướng tới.

1.Đạt ma Dịch cân kinh (gốc)
2.Đạt ma Dịch cân kinh (cải cách – xoay tay khi vẩy ra sau)
3.Phất thủ liệu pháp (tập khí là chính)
4.Dịch cân kinh 2 nhịp (Khí công y đạo)
5.Dịch cân kinh 4 nhịp (Khí công y đạo)
6.Vẩy tay Pingshuaigong (Phổ biến ở Đài Loan và Trung Quốc)

Vẩy tay Đạt ma dịch cân kinh

Vẩy tay Ping Shuai Gong (không phải Dịch cân kinh)

12 đường kinh

Sức mạnh của thiền định

Tập ngồi kiết già

Dịch cân kinh 2 nhịp – Khí công y đạo

Dịch cân kinh 4 nhịp – Khí công y đạo

Có người đọc cho nghe:

Khi vẩy tay cơ hoành sẽ liên tục giật lên xuống:

Cơ vai:

Tư thế ngồi tập cho người không đứng được:

Vẩy tay Ping Shuai Gong (30 phút)