Cây Mù u còn gọi là Hồ Đồng, Khtung, Khchyong (Cambodia)

Tên khoa học Calophyllum inophyllum L. (Balsamaria inophyllum Lour). Thuộc họ măng cụt (Guttiferae).

  1. Mô tả cây
    Mù u là một cây cao chừng 15 – 20 cm dáng đẹp. Lá mọc đối, mỏng, thon dài, phía cuống hơi thắt lại, đầu lá hơi tù; phiến lá dài 10 – 17  cm, rộng 5 – 8 cm, gân rất nhỏ, nhiều, chạy song song và nổi rõ ở cả hai mặt lá. Hoa khá to, thơm, màu trắng, mọc thanh trùm xim ở kẽ lã hay đầu cành. Từ xa, người ta phân biệt được cây Mù u với cây khác là nhờ màu trắng đặc biệt của hoa. Quả hạch, hình cầu, đường kính khoảng 2,5 cm, khi chín có màu vàng nhạt, vỏ quả giữa mẫm, vỏ quả trong dày, cứng. Hạt có lá mầm, chứa rất nhiều dầu. Mùa hoa : tháng 2 – 6 ; Mùa quả chín : tháng 10 – 12.
  2. Phân bố 
    Cây Mù u mọc hoang và được trồng tại nhiều tỉnh miền Bắc và miền Nam nước ta: Quảng Ninh, Kiến An cũ, từ Quảng Bình đến Phan Thiết,Vĩnh Long, Mỹ Tho, Gia Định, Thủ Dầu Một, Bà Rịa v.v… Còn mọc ở một số tỉnh miền nam Trung Quốc, Nhật Bản, Cambodia.Cây Mù u mọc hoang thường gặp ở những vùng đất cát gần bờ biển. Người dân miền trung thường lấy hạt ép dầu thắp đèn.
  3. Thành phần hóa học
    Hạt Mù u chứa từ 41 – 51 % dầu, nếu chỉ tính nhân, tỷ lệ có thể tới 73%. Từ dầu thô đó có thể tách ra 71,5 % dầu béo và 28,5 % nhựa, có loại dầu chứa tới 90,3% dầu béo và 9,7% nhựa.Dầu thô rất sánh, màu xanh lục thẫm, mùi thơm đặc biệt, vị đắng. Khi đã loại nhựa rồi, dầu sẽ lỏng hơn, màu nâu vàng. Trong dầu Mù u có panmitin, stearin, olein và arachidin. Chỉ sổ iot của dầu mà 90,4. Những năm gần đây, dầu Mù u đã được nghiên cứu kĩ hơn: Dietrich P., Lederer E. và Polonsky J. đã triết được từ hạt Mù u axit calophylic và chất calophylotlit và từ các chất trên lại chiết ra được axit benzoic và axetophenon. Các tác giả trên còn chiết được từ hạt một chất lacton. Chất lacton này xà phòng hóa cho axit calophylic . Nhựa Mù u lấy từ dầu thô có màu nâu sẫm tan trong benzen, cacbon sufua, ete dầu hỏa, cồn và các dung môi hữu cơ nói chung. Độ chảy 30 – 35o,  chỉ số iot : 125,2.
    Thân cây Mù u
    Từ thân cây trích ra được một thứ nhựa màu lục nhạt, mùi thơm, cũng dùng làm thuốc. Trong vỏ cây có chứa 11,9% Tanin. Theo Kalaw và Sacay trong lá, vỏ và rễ có chứa axit xyanhydric và một chất saponin.
  4. Công dụng và liều dùng
    Phần lớn còn dùng trong phạm vi nhân dân.
    Nhựa Mù u được dùng dưới dạng bột rắc lên các vết lở loét, mụn nhọt, tai có mủ.
    Dầu Mù u dùng chữa ghẻ, bệnh ngoài da, hoặc trộn đều với ít vôi đun lên rồi bôi vào.
    Theo Pétard este etylic của dầu Mù u dùng điều trị có kết quả chứng viêm dây thần kinh do hủi. Liều dùng của este etylic dầu Mù u là 5 – 10ml (tiêm bắp thịt sâu), 5 – 20 ml (xoa bóp), 5 – 20 ml (uống). Có thể dùng nhiều ngày liền vì thuốc không độc.Năm 1947, J. Mauboussin còn dùng dầu Mù u iot để điều trị bệnh tràng nhạc (Luận án thi bác sỹ y khoa, Paris)
    Dầu Mù u còn dùng xoa bóp trị bệnh thấp khớp. Ngoài công dụng làm thuốc, dầu Mù u còn được nhân dân dùng thắp đèn, có thể dùng nấu xà phòng. Gỗ Mù u dùng đóng thuyền và làm cột buồm.

Theo sách Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam
 Đỗ Tất Lợi, NXB Khoa học và Kỹ thuật-1997