Còn gọi là khương, sinh khương, can khương. Tên khoa học Zingiber officinale Rosc. Thuộc họ Gừng Zingiberaceae. Khương (Rhizoma Zingiberis) là thân rễ của cây gừng tươi hoặc khô. Tùy theo tươi hay khô, vị thuốc mang tên khác nhau: Sinh khương là củ (thân rễ) tươi. Can khương là thân rễ phơi khô.

1.Phân bố, thu hái và chế biến

Gừng được trồng ở khắp nơi trong nước ta để lấy củ ăn và làm thuốc, dùng trong nước và xuất khẩu.

Muốn có gừng tươi (sinh khương) thường đào củ vào mùa hạ và thu. Cắt bỏ lá và rễ con, rửa sạch là được. Muốn giữ gừng tươi lâu phải đặt gừng vào chậu phủ kín đất lên. Khi dùng đào lên rửa sạch. Mùa đông, đào lấy những thân rễ già, cắt bỏ lá và rễ con, rửa sạch, phơi khô sẽ được can khương.

Ngoài 2 loại gừng trên dùng trong đông y, trên thị trường quốc tế, người ta còn tiêu thụ 2 loại gừng là gừng xámvà gừng trắng. Gừng xám là loại củ còn để nguyên vỏ hay cạo vỏ ở những chỗ phẳng, rồi phơi khô. Gừng trắng là loại gừng đã cạo lớp võ ngoài có chứa nhiều nhựa dầu (oleoresin), rồi mới phơi khô. Thường người ta còn ngâm gừng già vào trong nước một ngày, rồi mới lấy ra cạo vỏ. Có khi người ta còn làm trắng bằng canxi hypoclorit, hay ngâm nước vôi hoặc xông hơi diêm sinh (SO2).

2.Thành phần hóa học

Trong gừng có 2-3% tinh dầu. Ngoài ra, còn có chứa chất nhựa dầu (5%), chất béo (3,7%), tinh bột và các chất cay như zingeron, zingerola và shogaola.

Nhựa gồm một nhựa trung tính, hai nhựa axit.

Zingerola là một chất lỏng sánh, màu vàng không mùi, vị rất cay, độ sôi ở 18mm thủy ngân là 235-2400C. Bản thân chất này không đơn thuần, khi cùng đun với Ba(OH)2 sẽ phân giải cho những chất andehyd bay hơi, những chất cay có tinh thể gọi là zingeron C11H14O3 và một chất ở thể dầu gọi là shogaola.

Shogaola có độ sôi 201-2030C.

Zingeron có tinh thể, độ sôi 40-410C vị rất cay.

Căn cứ vào sự hiểu biết hiện nay về cấu tạo hóa học, những chất có cấu tạo trên đây, trong đó n lớn hơn 1 thì đều có vị cay như các chất trong gừng.

Do những công thức trên, chúng ta hiểu được tại sao khi ngâm gừng lâu với 1 dung dịch 5% KOH, thì sẽ mất hết tính chất cay.

3.Công dụng và liều dùng

Theo tài liệu cổ: sinh khương vị cay, tính hơi ôn, vào ba kinh phế, tỳ và vị có tác dụng phát biểu tán hàn, ôn trung, làm hết nôn, tiêu đờm, hành thủy giải độc. Dùng chữa ngoại cảm, biểu chứng, bụng đầy trướng, nôn mửa, giải độc bán hạ, nam tinh, cua cá, đờm ẩm sinh ho.

Can khương vị cay, tính ôn, bào khương (can khương bào chế rồi) vị cay đắng tính đại hàn. Vào sáu kinh tâm, phế, tỳ, vị, thận và đại tràng. Có tác dụng ôn trung tán hàn, hồi dương thông mạch, dùng chữa thổ tả, bụng đau, chân tay lạnh, mạch nhỏ, hàn ẩm xuyển hay phong hàn thấp tỳ.

Trong nhân dân, gừng là một vị thuốc giúp tiêu hóa, dùng trong những trường hợp kém ăn, ăn uống không tiêu, nôn mửa đi ỉa, cảm mạo phong hàn, làm thuốc ra mồ hôi, chữa ho mất tiếng. Gừng tươi (sinh khương) dùng với liều 3-6g dưới dạng thuốc sắc hay thuốc pha hoặc rượu gừng tươi (mỗi ngày 2-5ml). Gừng khô (can khương) dùng khi bị lạnh mà đau bụng, đi ỉa lỏng, mệt lả, nôn mửa. Liều dùng cũng như gừng tươi.

Ngoài công dụng làm thuốc, gừng còn được dùng làm một thực phẩm, nguyên liệu chế rượu bia, mứt gừng…

4.Đơn thuốc có gừng

– Chữa nhức đầu, lạnh bụng, nôn ọe, có đờm
Can khương 10g, trích cam thảo 4g, nước 300ml sắc còn 100ml, chia nhiều lần uống trong ngày. Thấy đỡ thì uống bớt đi.

– Đi ỉa ra nước: can khương sấy khô tán nhỏ, dùng nước cơm chiên thuốc, mỗi lần uống 2-4g.

– Đi lỵ ra máu: can khương tiêu tồn tính. Ngày uống nhiều lần, mỗi lần 2-4g, chiêu bằng nước cơm hay nước cháo.

– Cảm cúm, nhức đầu, ho, thân thể đau mỏi: Gừng sống giã nhỏ, bọc vào mớ tóc rối, tẩm rượu xào nóng đánh khắp người và xát và chỗ đau mỗi.

– Chữa nôn mửa: gừng sống nhấm từng ít một cho đến khi hết nôn.

5.Kiêng kỵ

Trong đông y, người ta cho rằng những người trong ngoài đều nhiệt, vì nhiệt mà đau bụng, vì nhiệt mà thổ huyết thì không dùng được.
————
Nguồn: Cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi, 1977, trang 379~381

#caythuocquanhta #thuantunhien